75 năm ngày nhân quyền thế giới ( 10/12/ 1948 - 10/12/2023)
75 năm ngày nhân quyền thế giới ( 10/12/ 1948 - 10/12/2023)
Văn kiện quốc tế đầu tiên ghi nhận một cách tương đối toàn diện quyền con người
Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai do chủ nghĩa phát-xít gây ra đã làm hàng trăm triệu người trên thế giới thiệt mạng,
Được xem như văn kiện đầu tiên khẳng định một cách tương đối toàn diện về quyền con người, một tiêu chuẩn và mục tiêu chung cho tất cả quốc gia, dân tộc hướng tới, Tuyên ngôn,một mặt,chọn lọc kế thừa những tư tưởng tiến bộ của nhân loại được ghi nhận ở một số văn kiện lịch sử mang tính bản lề liên quan đến quyền con người, như Đại Hiến chương về quyền tự do của Anh năm 1215, Tuyên ngôn Độc lập Mỹ năm 1776,Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789;mặt khác,ghi nhận một số quyền là những vấn đề mang tính thách thức đối với các hệ thống xã hội vào thời điểm Tuyên ngôn ra đời, như quyền không bị kỳ thị, phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính; quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng tôn giáo, tự do hội họp, lập hội; quyền được tham gia quản lý đất nước...
Tuyên ngôn bao gồm phần lời nói đầu và phần nội dung với 30 Điều. Phần lời nói đầu của Tuyên ngôn đề cập đến những tư tưởng tiến bộ của nhân loại và những vấn đề cấp bách mà cộng đồng quốc tế phải ứng phó, bao gồm: 1- Tự do, công lý và hòa bình; 2- Nhu cầu về quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tôn giáo và “thoát khỏi” sự khốn cùng; 3- Quyền con người phải được một chế độ pháp trị bảo đảm; 4- Dựa vào Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn “xác nhận lại” và cam kết tôn trọng, thực thi trên toàn cầu những quyền và tự do căn bản ghi trong Tuyên ngôn.
Trong phần nội dung, 30 Điều của Tuyên ngôn (1) ghi nhận khá đầy đủ các quyền cơ bản của con người, từ quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, đến quyền được hưởng an sinh xã hội, tiếp cận các dịch vụ công, quyền làm việc, nghỉ ngơi, quyền học tập, quyền được hưởng sự chăm sóc đặc biệt đối với bà mẹ và trẻ em… Bên cạnh đó, Tuyên ngôn còn khẳng định mọi người đều phải có nghĩa vụ đối với cộng đồng, tôn trọng thích đáng các quyền và tự do của người khác, đáp ứng những yêu cầu về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung; cấm lạm dụng các quyền và tự do vào mục đích trái với những mục tiêu, tôn chỉ của Hiến chương Liên hợp quốc.
Những nội dung của Tuyên ngôn đã tạo nền tảng quan trọng cho sự ra đời của các điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người sau này, như: Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD, năm 1965); Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR, năm 1966); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR, năm 1966); Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt với phụ nữ (CEDAW, năm 1979); Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm (năm 1984); Công ước về quyền trẻ em (năm 1989), Công ước về bảo vệ quyền của tất cả người lao động di trú và các thành viên gia đình (năm 1990), Công ước về bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị cưỡng bức mất tích (năm 2006), Công ước về quyền của người khuyết tật (năm 2007).
Xét về tính chất,quyền con người được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về quyềncon ngườivà thể hiện cụ thể tại các văn kiện quốc tế có bốn đặc tính cơ bản.Một là,tính phổ quát. Lần đầu tiên đặc tính này được khẳng định tại Tuyên ngôn thế giới về quyềncon người, đồng thời được đề cập trong nhiều công ước, tuyên bố, nghị quyết quốc tế về quyềncon người
Xét về phân loại,
Ở cấp độ quốc tế, hàng loạt điều ước quốc tế về quyền con người đã được xây dựng, tạo khung khổ pháp lý quốc tế cho việc thực hiện các quyền con người trong mọi lĩnh vực trên toàn cầu. Luật Nhân quyền quốc tế tiếp tục phát triển và mở rộng nhằm giải quyết các vấn đề nhân quyền mới nổi, như quyền của người cao tuổi, quyền được biết sự thật, quyền môi trường trong sạch, nước, vệ sinh và thực phẩm, quyền tiếp cận công bằng với vắc-xin, quyền được tiêm chủng...
Ở cấp độ khu vực, bên cạnh Công ước châu Âu về nhân quyền năm 1950, Công ước châu Mỹ về nhân quyền năm 1969, Hiến chương châu Phi về nhân quyền và quyền các dân tộc năm 1981, Tuyên bố Nhân quyền ASEAN ra đời vào ngày
Tuyên ngôn đã khơi dậy các phong trào đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa, xóa bỏ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và thúc đẩy công bằng xã hội. Điển hình như, cuộc đấu tranh giành độc lập của các nước thuộc địa khác ở châu Á và châu Phi vào cuối những năm 40 đến những năm 60 của thế kỷ XX; cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở Mỹ và Nam Phi; các nỗ lực ở các cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế về thúc đẩy quyền của phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số... Đồng thời, thúc đẩy tạo ra hệ thống cơ chế quốc tế về quyền con người, bao gồm các cơ quan, cơ chế và tiêu chuẩn quốc tế để bảo đảm và thúc đẩy vấn đề quyền con người, như Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người (năm 1993); Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc (năm 2006); các Ủy ban Công ước của Liên hợp quốc về quyền con người(4). Ngoài ra, còn có các cơ chế khu vực về quyền con người, như: Tòa án Nhân quyền châu Âu, Tòa án Nhân quyền châu Phi, Tòa án Nhân quyền châu Mỹ,… và các cơ quan liên chính phủ ở cấp độ khu vực về quyền con người, như Ủy ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHR). Tuyên ngôn cũng thúc đẩy sự phát triển không chỉ của luật về quyền con người quốc tế, mà còn cả những lĩnh vực khác của luật quốc tế khác có liên quan nhằm thực thi quyền con người, như: luật nhân đạo quốc tế, luật quốc tế về trách nhiệm hình sự quốc tế và việc trừng trị các tội ác chiến tranh, tội ác chống lại loài người...
Thứ hai,các nước đã đạt được những thành tựu to lớn trong thực hiện các quyền con người trên hàng loạt lĩnh vực ở khắp thế giới, góp phần cải thiện nhiều về mức sống, sức khỏe, giáo dục, lao động, an sinh xã hội của mọi người trên thế giới. Theo đó, quyền con người đã trở thành một trọng tâm trong hoạt động đối thoại toàn cầu về hòa bình, an ninh và phát triển. Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, dân sự, chính trị và phát triển được công nhận là quyền có tính chất phổ quát, không thể phân chia và có sự tác động qua lại lẫn nhau. Không phân biệt đối xử và bình đẳng ngày càng được khẳng định là những nguyên tắc cơ bản của luật quyền con người quốc tế và là yếu tố thiết yếu của phẩm giá con người. Những biện pháp bảo vệ rõ ràng được quy định tại các điều ước quốc tế nhằm bảo vệ trẻ em, phụ nữ, nạn nhân bị tra tấn, người khuyết tật. Quyền của phụ nữ được thừa nhận là quyền cơ bản của con người. Phân biệt đối xử và hành vi bạo lực đối với phụ nữ luôn là một trong những trọng tâm trong thảo luận về quyền con người. Quyền con người của người khuyết tật được công nhận rõ ràng, đặc biệt và quan trọng nhất là quyền tham gia hiệu quả vào mọi lĩnh vực của cuộc sống trên cơ sở bình đẳng với những người khác. Quyền của người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới đã được đưa vào chương trình nghị sự quốc tế, được thảo luận tại Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc…
Sau 75 năm Tuyên ngôn thế giới về quyền con người ra đời và phát triển, quyền con người đã được ghi nhận là một trong những giá trị cốt lõi của loài người và là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát triển của một quốc gia, khu vực. Đồng thời, việc thúc đẩy và bảo đảm quyền con người vẫn là một ưu tiên quan trọng của các quốc gia trên thế giới với mức độ và hình thức khác nhau. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới luôn biến động không ngừng, vấn đề quyền con người ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng hơn, đã đặt ra năm vấn đề lớn, đòi hỏi các quốc gia, dân tộc, tổ chức quốc tế, tổ chức xã hội và người dân cần quan tâm để tìm ra những phương hướng ứng xử phù hợp.
Một là,sự khác biệt trong nhận thức về chuẩn mực quyền con người còn tồn tại giữa các nước, nhóm nước, khu vực, kể cả trong người dân trong phạm vi quốc gia, chủ yếu do khác biệt về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, các vấn đề lịch sử, chính trị, văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, do đó dẫn đến những quan điểm và thực tiễn, ưu tiên khác nhau về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Điều này đòi hỏi các nước hoàn thiện chính sách, pháp luật, giáo dục, phổ biến quyền con người trên cơ sở Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và công ước quốc tế có liên quan, nâng cao năng lực của các cơ chế quốc gia, khu vực và quốc tế về quyền con người nhằm thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, thu hẹp khoảng cách, khác biệt giữa các quốc gia trong lĩnh vực quyền con người, đồng thời vẫn giữ được bản sắc dân tộc, chủ quyền quốc gia.
Hai là, các thách thức cấp bách toàn cầu, như biến đổi khí hậu, thiên tai, chiến tranh, xung đột, khủng bố, dịch bệnh, di dân, mua bán người, an ninh mạng, an ninh thực phẩm, an ninh sinh học,… làm gia tăng tình trạng bất bình đẳng, phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính, không công bằng, nhất là trong tiếp cận vắc-xin và thiết bị y tế, khoảng cách về công nghệ số đã và đang ảnh hưởng lớn đến việc thụ hưởng quyền con người của hàng triệu người dân trên thế giới cả về sinh mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự…Đại dịch COVID-19 không chỉ gia tăng những chia rẽ và bất bình đẳng, mà còn xóa đi nhiều thành tựu về phát triển bền vững của thế giới.Trong khi đó, các cơ chế quốc tế về quyền con người còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế trong việc phòng ngừa và xử lý tác động tiêu cực của các hiện tượng này đối với thụ hưởng quyền con người.
Ba là, thách thức, nguy cơ tiềm ẩn về vi phạm quyền con người trong bối cảnh phát triển công nghệ tiên tiến, như công nghệ thông tin, kỹ thuật số, trí tuệ nhân tạo, sự thay đổi của các xu hướng và yêu cầu mới về quyền con người, mặc dù những phát triển công nghệ tiên tiến mang lại nhiều cơ hội và lợi ích cho con người. Các thách thức mới, như an ninh mạng, bảo mật dữ liệu cá nhân, bảo vệ phụ nữ và trẻ em trong không gian mạng, chống phát ngôn thù hận và thông tin giả… đòi hỏi các nước và tổ chức quốc tế có những chính sách và biện pháp để điều tiết, quản lý, cân bằng các lợi ích liên quan và bảo đảm quyền con người.
Bốn là,hoạt động chống phá, lợi dụng vấn đề quyềncon người của các thế lực thù địch, phản động đã làm giảm uy tín, thành quả tiến bộ về quyền con người mà nhiều nước đang phát triển trong thời gian qua phải hết sức nỗ lực để đạt được, nhất là các quyền tự do ngôn luận, báo chí, internet, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền của người dân tộc thiểu số… Lợi dụng sự thiếu hiểu biết, tâm lý ngại thay đổi của người dân, dịch bệnh COVID-19,… để kích động chống đối chủ trương, chính sách của các quốc gia đang phát triển, chỉ trích các chính phủ vi phạm quyền tự do của người dân… Những hoạt động này đã phần nào tác động tiêu cực đến nhận thức của cộng đồng quốc tế về nỗ lực bảo đảm quyền con người của các nước đang phát triển.
Đối với Việt Nam, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
Một trong những thành tựu lớn nhất của Việt Nam là việc giành lại và bảo vệ độc lập dân tộc, thoát khỏi chế độ thuộc địa, thống nhất đất nước, từng bước phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và thực hiện các quyền con người của người dân Việt Nam. Hệ thống pháp luật về quyền con người, bao gồm Hiến pháp, các luật, văn bản quy phạm pháp luật dưới luật ngày càng hoàn thiện, cụ thể hóa và bảo đảm các quyền cơ bản của công dân theo tinh thần của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã dành riêng một chương với 36 điều quy định rõ về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Theo đó, Việt Nam đã bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành mới hơn 100 văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bảo đảm quyền con người, quyền công dân, trong đó có một số đạo luật quan trọng, như Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Trưng cầu ý dân năm 2015, Luật Trẻ em năm 2016, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, Luật An ninh mạng năm 2018, Bộ luật Lao động năm 2019…
Việt Nam đã đạt được những tiến bộ vượt bậc về xóa đói, giảm nghèo, phát triển con người và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Việt Nam đã hoàn thành trước hầu hết các Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ (MDG) và đang tích cực triển khai thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDG). Theo thống kê của Liên hợp quốc, chỉ số phát triển con người của Việt Nam đã tăng gần 46% trong 30 năm qua, nằm trong nhóm các nước có tốc độ tăng cao nhất thế giới. Tỷ lệ biết chữ trong độ tuổi từ 15 - 60 là 97,85% và tỷ lệ biết chữ độ trong độ tuổi từ 15 - 35 là 99,3%. Tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam đã đạt 73,6 năm (năm 2021). Trong 10 năm qua (2010 - 2020), tổng sản phẩm nội địa (GDP) tăng trưởng bình quân gần 6%; thu nhập bình quân đầu người tăng gấp hơn hai lần; tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 14,2% xuống dưới 3%. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng nhanh từ 60,9% dân số lên 90,7%.
Việc bảo đảm các quyền con người của Việt Nam được thực hiện phù hợp với các chuẩn mực theo các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Hiện nay, Việt Nam là thành viên của 7/9 điều ước quốc tế quan trọng về quyền con người. Việt Nam cũng là thành viên của 25 công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về quyền của người lao động, trong đó có 7/8 công ước cơ bản.
Việt Nam luôn thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ quốc tế về quyền con người, bao gồm bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người, báo cáo quốc gia. Đồng thời, Việt Nam tích cực đối thoại và hợp tác với các cơ chế quốc tế của Liên hợp quốc về quyền con người, bao gồm cả việc tiến hành ba lần rà soát theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) vào các năm 2009, năm 2014, năm 2019 và chuẩn bị cho UPR lần thứ tư vào năm 2024. Đặc biệt, Việt Nam đã và đang tích cực tham gia các hoạt động hợp tác khu vực và quốc tế về thúc đẩy quyền con người, cũng như hoạt động của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc. Trong đó, Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016, góp phần bảo vệ lợi ích quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước. Việt Nam tham gia tích cực các hoạt động của Hội đồng quyền con người, thúc đẩy các sáng kiến thể hiện dấu ấn, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, nhất là việc tham gia Nhóm Nòng cốt tại Hội đồng quyền con người về biến đổi khí hậu và quyền con người. Ngày 11-10-2022, trong cuộc bầu cử do Đại hội đồng Liên hợp quốc tổ chức tại thành phố New York (Mỹ), Việt Nam tiếp tục được các nước tín nhiệm bầu làm thành viên Hội đồng quyền con người Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025. Là ứng cử viên duy nhất của ASEAN cho nhiệm kỳ này, Việt Nam đã thúc đẩy thông điệp ứng cử “Tôn trọng và Hiểu biết. Đối thoại và Hợp tác. Tất cả các quyền con người cho tất cả mọi người” được các nước hưởng ứng, ủng hộ. Đáng chú ý, ngay trong Khóa họp đầu tiên đảm nhiệm cương vị thành viên Hội đồng quyền con người Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025, diễn ra ở Thủ đô Geneve (Thụy Sĩ) vào ngày 3-4-2023, Việt Nam đã thể hiện vai trò xây dựng và đóng góp tích cực khi chủ trì giới thiệu, tham vấn, đề xuất Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc thông qua Nghị quyết về kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và 30 năm Tuyên bố và Chương trình hành động Viên về quyền con người (1993 - 2023) bằng hình thức đồng thuận, với hơn 102 quốc gia tham gia đồng bảo trợ.
Ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đã có những đóng góp thiết thực nhằm tăng cường đoàn kết và hợp tác trong ASEAN về quyền con người, đặc biệt trong quá trình xây dựng Hiến chương ASEAN và Cộng đồng ASEAN, Tuyên ngôn quyền con người ASEAN, thành lập và hoạt động của các cơ chế ASEAN liên quan đến quyền con người, qua đó khẳng định các cam kết của ASEAN về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong khu vực phù hợp với các chuẩn mực quốc tế được thừa nhận chung, tạo khuôn khổ cho việc tăng cường hợp tác của ASEAN trong lĩnh vực này.
Bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được, Việt Nam cũng đối mặt với không ít thách thức chung trong vấn đề quyền con người. Hệ thống pháp luật và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức về quyền con người chưa thực sự đáp ứng tốt trước nhu cầu của người dân. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức còn hạn chế về nhận thức và kỹ năng thực thi quyền con người trong triển khai công tác. Một số nước và tổ chức quốc tế vẫn có những quan điểm khác biệt hoặc thiếu khách quan về vấn đề quyền con người Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động ngày càng gia tăng những hoạt động lợi dụng quyền con người để xuyên tạc sự thật, gây mất ổn định, trật tự xã hội.
Do đó, Việt Nam cần thích ứng và cập nhật với những xu hướng và yêu cầu mới về quyền con người trong thời đại toàn cầu hóa. Các vấn đề, như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, di dân, công nghệ số,… có nhiều tác động đến việc thụ hưởng quyền con người của người dân. Việt Nam cần có những chính sách và biện pháp để bảo vệ quyền con người của người dân trước những thách thức mới này, đồng thời tận dụng cơ hội mới để nâng cao quyền con người. Cùng với việc bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người của người dân, trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực để duy trì tham gia, đóng góp tích cực vào các hoạt động của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc trên cương vị thành viên của cơ quan liên chính phủ quan trọng nhất về quyền con người của Liên hợp quốc, cũng như hợp tác với các cơ chế quốc tế khác về quyền con người, qua đó góp phần xây dựng một thế giới hòa bình, ổn định, phát triển bền vững và tôn trọng quyền con người.
Nhìn chung, kể từ khi giành lại độc lập cách đây hơn 78 năm,
----------------------------------------------
(1) Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (năm 1948),https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Quyen-dan-su/Tuyen-ngon-quoc-te-nhan-quyen-1948-65774.aspx
Tin cùng chuyên mục
-
75 năm ngày nhân quyền thế giới ( 10/12/ 1948 - 10/12/2023)
13/12/2023 00:00:00 -
CHÀO MỪNG NGÀY DOANH NHÂN VIỆT NAM 13.10
06/10/2023 00:00:00 -
MẬT ONG TỨ SƠN
03/10/2023 08:51:20 -
THÔNG BÁO nghĩa vụ nộp thuế sử dụng đất phi nông nghiệp trên địa bàn xã Hải Nhân
19/09/2023 00:00:00
75 năm ngày nhân quyền thế giới ( 10/12/ 1948 - 10/12/2023)
75 năm ngày nhân quyền thế giới ( 10/12/ 1948 - 10/12/2023)
Văn kiện quốc tế đầu tiên ghi nhận một cách tương đối toàn diện quyền con người
Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai do chủ nghĩa phát-xít gây ra đã làm hàng trăm triệu người trên thế giới thiệt mạng,
Được xem như văn kiện đầu tiên khẳng định một cách tương đối toàn diện về quyền con người, một tiêu chuẩn và mục tiêu chung cho tất cả quốc gia, dân tộc hướng tới, Tuyên ngôn,một mặt,chọn lọc kế thừa những tư tưởng tiến bộ của nhân loại được ghi nhận ở một số văn kiện lịch sử mang tính bản lề liên quan đến quyền con người, như Đại Hiến chương về quyền tự do của Anh năm 1215, Tuyên ngôn Độc lập Mỹ năm 1776,Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789;mặt khác,ghi nhận một số quyền là những vấn đề mang tính thách thức đối với các hệ thống xã hội vào thời điểm Tuyên ngôn ra đời, như quyền không bị kỳ thị, phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính; quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng tôn giáo, tự do hội họp, lập hội; quyền được tham gia quản lý đất nước...
Tuyên ngôn bao gồm phần lời nói đầu và phần nội dung với 30 Điều. Phần lời nói đầu của Tuyên ngôn đề cập đến những tư tưởng tiến bộ của nhân loại và những vấn đề cấp bách mà cộng đồng quốc tế phải ứng phó, bao gồm: 1- Tự do, công lý và hòa bình; 2- Nhu cầu về quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tôn giáo và “thoát khỏi” sự khốn cùng; 3- Quyền con người phải được một chế độ pháp trị bảo đảm; 4- Dựa vào Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn “xác nhận lại” và cam kết tôn trọng, thực thi trên toàn cầu những quyền và tự do căn bản ghi trong Tuyên ngôn.
Trong phần nội dung, 30 Điều của Tuyên ngôn (1) ghi nhận khá đầy đủ các quyền cơ bản của con người, từ quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, đến quyền được hưởng an sinh xã hội, tiếp cận các dịch vụ công, quyền làm việc, nghỉ ngơi, quyền học tập, quyền được hưởng sự chăm sóc đặc biệt đối với bà mẹ và trẻ em… Bên cạnh đó, Tuyên ngôn còn khẳng định mọi người đều phải có nghĩa vụ đối với cộng đồng, tôn trọng thích đáng các quyền và tự do của người khác, đáp ứng những yêu cầu về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung; cấm lạm dụng các quyền và tự do vào mục đích trái với những mục tiêu, tôn chỉ của Hiến chương Liên hợp quốc.
Những nội dung của Tuyên ngôn đã tạo nền tảng quan trọng cho sự ra đời của các điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người sau này, như: Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD, năm 1965); Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR, năm 1966); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR, năm 1966); Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt với phụ nữ (CEDAW, năm 1979); Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm (năm 1984); Công ước về quyền trẻ em (năm 1989), Công ước về bảo vệ quyền của tất cả người lao động di trú và các thành viên gia đình (năm 1990), Công ước về bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị cưỡng bức mất tích (năm 2006), Công ước về quyền của người khuyết tật (năm 2007).
Xét về tính chất,quyền con người được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về quyềncon ngườivà thể hiện cụ thể tại các văn kiện quốc tế có bốn đặc tính cơ bản.Một là,tính phổ quát. Lần đầu tiên đặc tính này được khẳng định tại Tuyên ngôn thế giới về quyềncon người, đồng thời được đề cập trong nhiều công ước, tuyên bố, nghị quyết quốc tế về quyềncon người
Xét về phân loại,
Ở cấp độ quốc tế, hàng loạt điều ước quốc tế về quyền con người đã được xây dựng, tạo khung khổ pháp lý quốc tế cho việc thực hiện các quyền con người trong mọi lĩnh vực trên toàn cầu. Luật Nhân quyền quốc tế tiếp tục phát triển và mở rộng nhằm giải quyết các vấn đề nhân quyền mới nổi, như quyền của người cao tuổi, quyền được biết sự thật, quyền môi trường trong sạch, nước, vệ sinh và thực phẩm, quyền tiếp cận công bằng với vắc-xin, quyền được tiêm chủng...
Ở cấp độ khu vực, bên cạnh Công ước châu Âu về nhân quyền năm 1950, Công ước châu Mỹ về nhân quyền năm 1969, Hiến chương châu Phi về nhân quyền và quyền các dân tộc năm 1981, Tuyên bố Nhân quyền ASEAN ra đời vào ngày
Tuyên ngôn đã khơi dậy các phong trào đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa, xóa bỏ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và thúc đẩy công bằng xã hội. Điển hình như, cuộc đấu tranh giành độc lập của các nước thuộc địa khác ở châu Á và châu Phi vào cuối những năm 40 đến những năm 60 của thế kỷ XX; cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở Mỹ và Nam Phi; các nỗ lực ở các cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế về thúc đẩy quyền của phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số... Đồng thời, thúc đẩy tạo ra hệ thống cơ chế quốc tế về quyền con người, bao gồm các cơ quan, cơ chế và tiêu chuẩn quốc tế để bảo đảm và thúc đẩy vấn đề quyền con người, như Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người (năm 1993); Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc (năm 2006); các Ủy ban Công ước của Liên hợp quốc về quyền con người(4). Ngoài ra, còn có các cơ chế khu vực về quyền con người, như: Tòa án Nhân quyền châu Âu, Tòa án Nhân quyền châu Phi, Tòa án Nhân quyền châu Mỹ,… và các cơ quan liên chính phủ ở cấp độ khu vực về quyền con người, như Ủy ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHR). Tuyên ngôn cũng thúc đẩy sự phát triển không chỉ của luật về quyền con người quốc tế, mà còn cả những lĩnh vực khác của luật quốc tế khác có liên quan nhằm thực thi quyền con người, như: luật nhân đạo quốc tế, luật quốc tế về trách nhiệm hình sự quốc tế và việc trừng trị các tội ác chiến tranh, tội ác chống lại loài người...
Thứ hai,các nước đã đạt được những thành tựu to lớn trong thực hiện các quyền con người trên hàng loạt lĩnh vực ở khắp thế giới, góp phần cải thiện nhiều về mức sống, sức khỏe, giáo dục, lao động, an sinh xã hội của mọi người trên thế giới. Theo đó, quyền con người đã trở thành một trọng tâm trong hoạt động đối thoại toàn cầu về hòa bình, an ninh và phát triển. Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, dân sự, chính trị và phát triển được công nhận là quyền có tính chất phổ quát, không thể phân chia và có sự tác động qua lại lẫn nhau. Không phân biệt đối xử và bình đẳng ngày càng được khẳng định là những nguyên tắc cơ bản của luật quyền con người quốc tế và là yếu tố thiết yếu của phẩm giá con người. Những biện pháp bảo vệ rõ ràng được quy định tại các điều ước quốc tế nhằm bảo vệ trẻ em, phụ nữ, nạn nhân bị tra tấn, người khuyết tật. Quyền của phụ nữ được thừa nhận là quyền cơ bản của con người. Phân biệt đối xử và hành vi bạo lực đối với phụ nữ luôn là một trong những trọng tâm trong thảo luận về quyền con người. Quyền con người của người khuyết tật được công nhận rõ ràng, đặc biệt và quan trọng nhất là quyền tham gia hiệu quả vào mọi lĩnh vực của cuộc sống trên cơ sở bình đẳng với những người khác. Quyền của người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới đã được đưa vào chương trình nghị sự quốc tế, được thảo luận tại Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc…
Sau 75 năm Tuyên ngôn thế giới về quyền con người ra đời và phát triển, quyền con người đã được ghi nhận là một trong những giá trị cốt lõi của loài người và là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát triển của một quốc gia, khu vực. Đồng thời, việc thúc đẩy và bảo đảm quyền con người vẫn là một ưu tiên quan trọng của các quốc gia trên thế giới với mức độ và hình thức khác nhau. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới luôn biến động không ngừng, vấn đề quyền con người ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng hơn, đã đặt ra năm vấn đề lớn, đòi hỏi các quốc gia, dân tộc, tổ chức quốc tế, tổ chức xã hội và người dân cần quan tâm để tìm ra những phương hướng ứng xử phù hợp.
Một là,sự khác biệt trong nhận thức về chuẩn mực quyền con người còn tồn tại giữa các nước, nhóm nước, khu vực, kể cả trong người dân trong phạm vi quốc gia, chủ yếu do khác biệt về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, các vấn đề lịch sử, chính trị, văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, do đó dẫn đến những quan điểm và thực tiễn, ưu tiên khác nhau về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Điều này đòi hỏi các nước hoàn thiện chính sách, pháp luật, giáo dục, phổ biến quyền con người trên cơ sở Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và công ước quốc tế có liên quan, nâng cao năng lực của các cơ chế quốc gia, khu vực và quốc tế về quyền con người nhằm thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, thu hẹp khoảng cách, khác biệt giữa các quốc gia trong lĩnh vực quyền con người, đồng thời vẫn giữ được bản sắc dân tộc, chủ quyền quốc gia.
Hai là, các thách thức cấp bách toàn cầu, như biến đổi khí hậu, thiên tai, chiến tranh, xung đột, khủng bố, dịch bệnh, di dân, mua bán người, an ninh mạng, an ninh thực phẩm, an ninh sinh học,… làm gia tăng tình trạng bất bình đẳng, phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính, không công bằng, nhất là trong tiếp cận vắc-xin và thiết bị y tế, khoảng cách về công nghệ số đã và đang ảnh hưởng lớn đến việc thụ hưởng quyền con người của hàng triệu người dân trên thế giới cả về sinh mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự…Đại dịch COVID-19 không chỉ gia tăng những chia rẽ và bất bình đẳng, mà còn xóa đi nhiều thành tựu về phát triển bền vững của thế giới.Trong khi đó, các cơ chế quốc tế về quyền con người còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế trong việc phòng ngừa và xử lý tác động tiêu cực của các hiện tượng này đối với thụ hưởng quyền con người.
Ba là, thách thức, nguy cơ tiềm ẩn về vi phạm quyền con người trong bối cảnh phát triển công nghệ tiên tiến, như công nghệ thông tin, kỹ thuật số, trí tuệ nhân tạo, sự thay đổi của các xu hướng và yêu cầu mới về quyền con người, mặc dù những phát triển công nghệ tiên tiến mang lại nhiều cơ hội và lợi ích cho con người. Các thách thức mới, như an ninh mạng, bảo mật dữ liệu cá nhân, bảo vệ phụ nữ và trẻ em trong không gian mạng, chống phát ngôn thù hận và thông tin giả… đòi hỏi các nước và tổ chức quốc tế có những chính sách và biện pháp để điều tiết, quản lý, cân bằng các lợi ích liên quan và bảo đảm quyền con người.
Bốn là,hoạt động chống phá, lợi dụng vấn đề quyềncon người của các thế lực thù địch, phản động đã làm giảm uy tín, thành quả tiến bộ về quyền con người mà nhiều nước đang phát triển trong thời gian qua phải hết sức nỗ lực để đạt được, nhất là các quyền tự do ngôn luận, báo chí, internet, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền của người dân tộc thiểu số… Lợi dụng sự thiếu hiểu biết, tâm lý ngại thay đổi của người dân, dịch bệnh COVID-19,… để kích động chống đối chủ trương, chính sách của các quốc gia đang phát triển, chỉ trích các chính phủ vi phạm quyền tự do của người dân… Những hoạt động này đã phần nào tác động tiêu cực đến nhận thức của cộng đồng quốc tế về nỗ lực bảo đảm quyền con người của các nước đang phát triển.
Đối với Việt Nam, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
Một trong những thành tựu lớn nhất của Việt Nam là việc giành lại và bảo vệ độc lập dân tộc, thoát khỏi chế độ thuộc địa, thống nhất đất nước, từng bước phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và thực hiện các quyền con người của người dân Việt Nam. Hệ thống pháp luật về quyền con người, bao gồm Hiến pháp, các luật, văn bản quy phạm pháp luật dưới luật ngày càng hoàn thiện, cụ thể hóa và bảo đảm các quyền cơ bản của công dân theo tinh thần của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã dành riêng một chương với 36 điều quy định rõ về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Theo đó, Việt Nam đã bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành mới hơn 100 văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bảo đảm quyền con người, quyền công dân, trong đó có một số đạo luật quan trọng, như Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Trưng cầu ý dân năm 2015, Luật Trẻ em năm 2016, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, Luật An ninh mạng năm 2018, Bộ luật Lao động năm 2019…
Việt Nam đã đạt được những tiến bộ vượt bậc về xóa đói, giảm nghèo, phát triển con người và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Việt Nam đã hoàn thành trước hầu hết các Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ (MDG) và đang tích cực triển khai thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDG). Theo thống kê của Liên hợp quốc, chỉ số phát triển con người của Việt Nam đã tăng gần 46% trong 30 năm qua, nằm trong nhóm các nước có tốc độ tăng cao nhất thế giới. Tỷ lệ biết chữ trong độ tuổi từ 15 - 60 là 97,85% và tỷ lệ biết chữ độ trong độ tuổi từ 15 - 35 là 99,3%. Tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam đã đạt 73,6 năm (năm 2021). Trong 10 năm qua (2010 - 2020), tổng sản phẩm nội địa (GDP) tăng trưởng bình quân gần 6%; thu nhập bình quân đầu người tăng gấp hơn hai lần; tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 14,2% xuống dưới 3%. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng nhanh từ 60,9% dân số lên 90,7%.
Việc bảo đảm các quyền con người của Việt Nam được thực hiện phù hợp với các chuẩn mực theo các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Hiện nay, Việt Nam là thành viên của 7/9 điều ước quốc tế quan trọng về quyền con người. Việt Nam cũng là thành viên của 25 công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về quyền của người lao động, trong đó có 7/8 công ước cơ bản.
Việt Nam luôn thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ quốc tế về quyền con người, bao gồm bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người, báo cáo quốc gia. Đồng thời, Việt Nam tích cực đối thoại và hợp tác với các cơ chế quốc tế của Liên hợp quốc về quyền con người, bao gồm cả việc tiến hành ba lần rà soát theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) vào các năm 2009, năm 2014, năm 2019 và chuẩn bị cho UPR lần thứ tư vào năm 2024. Đặc biệt, Việt Nam đã và đang tích cực tham gia các hoạt động hợp tác khu vực và quốc tế về thúc đẩy quyền con người, cũng như hoạt động của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc. Trong đó, Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016, góp phần bảo vệ lợi ích quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước. Việt Nam tham gia tích cực các hoạt động của Hội đồng quyền con người, thúc đẩy các sáng kiến thể hiện dấu ấn, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, nhất là việc tham gia Nhóm Nòng cốt tại Hội đồng quyền con người về biến đổi khí hậu và quyền con người. Ngày 11-10-2022, trong cuộc bầu cử do Đại hội đồng Liên hợp quốc tổ chức tại thành phố New York (Mỹ), Việt Nam tiếp tục được các nước tín nhiệm bầu làm thành viên Hội đồng quyền con người Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025. Là ứng cử viên duy nhất của ASEAN cho nhiệm kỳ này, Việt Nam đã thúc đẩy thông điệp ứng cử “Tôn trọng và Hiểu biết. Đối thoại và Hợp tác. Tất cả các quyền con người cho tất cả mọi người” được các nước hưởng ứng, ủng hộ. Đáng chú ý, ngay trong Khóa họp đầu tiên đảm nhiệm cương vị thành viên Hội đồng quyền con người Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025, diễn ra ở Thủ đô Geneve (Thụy Sĩ) vào ngày 3-4-2023, Việt Nam đã thể hiện vai trò xây dựng và đóng góp tích cực khi chủ trì giới thiệu, tham vấn, đề xuất Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc thông qua Nghị quyết về kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và 30 năm Tuyên bố và Chương trình hành động Viên về quyền con người (1993 - 2023) bằng hình thức đồng thuận, với hơn 102 quốc gia tham gia đồng bảo trợ.
Ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đã có những đóng góp thiết thực nhằm tăng cường đoàn kết và hợp tác trong ASEAN về quyền con người, đặc biệt trong quá trình xây dựng Hiến chương ASEAN và Cộng đồng ASEAN, Tuyên ngôn quyền con người ASEAN, thành lập và hoạt động của các cơ chế ASEAN liên quan đến quyền con người, qua đó khẳng định các cam kết của ASEAN về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong khu vực phù hợp với các chuẩn mực quốc tế được thừa nhận chung, tạo khuôn khổ cho việc tăng cường hợp tác của ASEAN trong lĩnh vực này.
Bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được, Việt Nam cũng đối mặt với không ít thách thức chung trong vấn đề quyền con người. Hệ thống pháp luật và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức về quyền con người chưa thực sự đáp ứng tốt trước nhu cầu của người dân. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức còn hạn chế về nhận thức và kỹ năng thực thi quyền con người trong triển khai công tác. Một số nước và tổ chức quốc tế vẫn có những quan điểm khác biệt hoặc thiếu khách quan về vấn đề quyền con người Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động ngày càng gia tăng những hoạt động lợi dụng quyền con người để xuyên tạc sự thật, gây mất ổn định, trật tự xã hội.
Do đó, Việt Nam cần thích ứng và cập nhật với những xu hướng và yêu cầu mới về quyền con người trong thời đại toàn cầu hóa. Các vấn đề, như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, di dân, công nghệ số,… có nhiều tác động đến việc thụ hưởng quyền con người của người dân. Việt Nam cần có những chính sách và biện pháp để bảo vệ quyền con người của người dân trước những thách thức mới này, đồng thời tận dụng cơ hội mới để nâng cao quyền con người. Cùng với việc bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người của người dân, trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực để duy trì tham gia, đóng góp tích cực vào các hoạt động của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc trên cương vị thành viên của cơ quan liên chính phủ quan trọng nhất về quyền con người của Liên hợp quốc, cũng như hợp tác với các cơ chế quốc tế khác về quyền con người, qua đó góp phần xây dựng một thế giới hòa bình, ổn định, phát triển bền vững và tôn trọng quyền con người.
Nhìn chung, kể từ khi giành lại độc lập cách đây hơn 78 năm,
----------------------------------------------
(1) Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (năm 1948),https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Quyen-dan-su/Tuyen-ngon-quoc-te-nhan-quyen-1948-65774.aspx